Ngành công nghiệp điện tử Việt Nam đã phát triển khá mạnh trong vài năm qua, thu hút đầu tư từ các tập đoàn nước ngoài khổng lồ như Samsung, Intel, Canon, Panasonic, Fujitsu, LG, Bosch, Nokia…
Samsung hiện là một trong những nhà đầu tư lớn nhất tại Việt Nam. Công ty đã đầu tư hàng chục tỷ USD cho các nhà máy sản xuất điện thoại thông minh và đã đạt doanh số 23,9 tỷ USD vào năm ngoái từ việc xuất khẩu điện thoại được sản xuất và lắp ráp trong nước, chiếm 18% tổng doanh thu xuất khẩu của Việt Nam.
Lần đầu tiên, Việt Nam đã trở thành nơi sản xuất các thiết bị công nghệ cao của thế giới, với 120 trong số 400 triệu điện thoại di động Samsung bán trên toàn cầu được sản xuất tại Bắc Ninh. Cùng với nhà máy của Samsung ở Thái Nguyên gần đây được đưa vào hoạt động, Việt Nam đã trở thành một trong những cơ sở sản xuất toàn cầu quan trọng của Samsung.
Tại cuộc họp giữa Samsung Electronics Việt Nam (SEV) với hơn 200 nhà cung cấp linh kiện trên toàn quốc tại Hà Nội vừa qua, ông Shim Won Hwan, Tổng giám đốc của Samsung Complex (có trụ sở tại Bắc Ninh) phát biểu, Công ty đã đăng ký tổng vốn đầu tư gần 8 tỷ USD trong các ngành công nghiệp điện tử và hỗ trợ tại Việt Nam.
Intel và LG cũng đã rót gần 1 tỷ USD vào ngành công nghiệp điện tử trong nước, cùng với hàng trăm triệu USD từ các công ty nước ngoài khác. Canon sẽ trở thành nhà máy sản xuất máy in lớn nhất thế giới, trải dài trên khắp Hà Nội, Bắc Ninh và Bắc Giang. Tập đoàn Nidec cũng đã quyết định đầu tư 1 tỷ USD vào khu vực phía Nam trong 5 năm tiếp theo.
Theo Tổng cục Thống kê, Việt Nam đã đạt kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng linh kiện điện tử là 20,5 tỷ USD năm 2012, tăng 90% so với năm 2011. Trong năm 2013, kim ngạch xuất khẩu của ngành này là 32,2 USDõ, dẫn đầu ngành xuất khẩu của cả nước.
Nhu cầu cấp thiết cho ngành công nghiệp hỗ trợ
"Theo quan điểm của chúng tôi, ngành công nghiệp phụ trợ rất quan trọng để giúp ngành công nghiệp linh kiện điện tử sản xuất thiết bị điện tử phát triển mạnh tại Việt Nam. Các ngành công nghiệp phụ trợ nội địa đóng vai trò quan trọng cho sự phát triển bền vững và khả năng cạnh tranh tổng thể của ngành sản xuất điện tử. Quan trọng hơn nữa là, ngành này sẽ cho phép chúng tôi đáp ứng nhu cầu của khách hàng nhanh chóng và linh hoạt, do đó, sẽ tạo ra giá trị cho khách hàng. Panasonic khẳng định mục tiêu mở rộng hoạt động tại Việt Nam. Các nhà sản xuất linh kiện điện tử của Việt Nam còn rất hiếm, lĩnh vực này đòi hỏi sự đầu tư và áp dụng công nghệ cao”, ông Ling Sing Kok, Trợ lý Giám đốc bán hàng và dịch vụ Panasonic chia sẻ.
Tuy nhiên, một trong những điều kiện để Samsung mở rộng hoạt động là sự phát triển của các ngành công nghiệp hỗ trợ. "Nếu ngành công nghiệp phụ trợ chưa phát triển, Việt Nam không thể tránh phụ thuộc nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu, như vậy sẽ làm suy yếu khả năng cạnh tranh của mình và gây khó khăn cho đất nước để duy trì tăng trưởng kinh tế", ông Hwan nói.
"Để thúc đẩy ngành công nghiệp phụ trợ, không chỉ có hỗ trợ từ Chính phủ mà các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp phụ trợ cần phải nâng cao chất lượng sản phẩm, cắt giảm chi phí và đảm bảo thời gian giao hàng. Các DN ngành công nghiệp phụ trợ Việt Nam hiện đang cạnh tranh không chỉ với các đối thủ đến từ Hàn Quốc, mà còn nhiều nơi khác trên thế giới”, ông Hwan nói thêm.
Tương tự, ông Katsuyoshi Soma, Tổng giám đốc Canon Việt Nam phát biểu: “Với 10 năm hoạt động tại Việt Nam, Canon Việt Nam hiện có 3 nhà máy. Trong những năm tới, chúng tôi mong muốn tăng tỷ lệ nội địa hóa tại Việt Nam, từ đó, sẽ giúp chúng tôi tạo nên sản phẩm cạnh tranh hơn cũng như đóng góp nhiều hơn vào sự phát triển của Việt Nam. Hiện tại, tỷ lệ nội địa hoá cho Canon Việt Nam là 65%, bao gồm cả sản xuất trong nước; tuy nhiên, vẫn phải nhập khẩu gần như tất cả các linh kiện điện và điện tử, chất bán dẫn và các bộ phận cơ khí (cơ khí chính xác, khuôn mẫu)”.
Ông Nguyễn Văn Thụ, Chủ tịch Hiệp hội Cơ khí Việt Nam cho rằng, các DN FDI hàng đầu cần phải có chính sách phát triển ngành công nghiệp phụ trợ, nếu họ muốn tăng sản lượng nội địa của họ tại Việt Nam. Họ cần phải thiết lập các tiêu chuẩn cho các sản phẩm họ cần, đặt hàng các DN ngành công nghiệp phụ trợ và phải cam kết sẽ mua các sản phẩm đó. Có như vậy, họ mới làm cho các DN này cảm thấy thoải mái và yên tâm khi sản xuất.
"Ngành công nghiệp phụ trợ của Việt Nam còn non trẻ, nhưng có tiềm năng rất lớn. Chúng tôi tin tưởng rằng, với chính sách ưu đãi của Chính phủ Việt Nam và các DN FDI và các nhà cung cấp trong nước sẽ có nhiều cơ hội hơn nữa, để tìm hiểu về nhau, thảo luận và hợp tác để thúc đẩy các ngành công nghiệp phụ trợ", ông Hwan nói thêm.
Panasonic cũng dự đoán, việc lắp ráp sản phẩm điện tử sẽ tiếp tục phát triển mạnh do Việt Nam có lợi thế về nguồn lực cạnh tranh và vị trí chiến lược trong khu vực Đông Nam Á.
"Trong vòng 5 đến 10 năm tới, DN sản xuất điện tử của Việt Nam sẽ tiếp tục phát triển với đầu tư trực tiếp nước ngoài đến từ Hàn Quốc, Trung Quốc... Đối với chúng tôi, tiềm năng tăng trưởng kết hợp nhu cầu gắn kết máy móc công nghệ ít nhất là 10% hoặc nhiều hơn. Chúng tôi nhìn thấy tiềm năng rất lớn trong ngành công nghiệp điện tử Việt Nam hiện được tập trung nhiều vào việc sản xuất điện thoại di động, một số sản phẩm điện tử tại địa phương và các sản phẩm nghe nhìn. Và còn nhiều sản phẩm điện tử phức tạp hơn như máy tính bảng, máy tính xách tay, màn hình LCD công nghiệp có thể được thực hiện tại Việt Nam trong tương lai", ông Ling chia sẻ.
Cơ hội phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ
Theo Tổ chức Xúc tiến ngoại thương Nhật Bản (JETRO), chỉ có 32% các nhà cung cấp địa phương ở Việt Nam đáp ứng các tiêu chuẩn được thiết lập bởi DN Nhật Bản so với 53% ở Thái Lan và 64% ở Trung Quốc. Hơn nữa, nguồn cung cấp đó hầu hết đến từ các DN nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. DN Việt Nam chỉ đóng góp 13,2% tổng nguyên liệu đầu vào và các phụ kiện được bán cho các DN Nhật Bản.
Tuần qua, Bộ trưởng Bộ Công thương Vũ Huy Hoàng, người được Quốc hội chất vấn đầu tiên đã thừa nhận chính sách phát triển ngành công nghiệp phụ trợ thực tế đã tụt hậu.
"Các chính sách của Việt Nam về phát triển ngành công nghiệp phụ trợ nhằm giúp các DN trong nước tham gia vào chuỗi cung ứng tại thị trường nội địa vẫn chưa tạo ra một khuôn khổ pháp lý thuận lợi”, Bộ trưởng Hoàng cho biết.
Việt Nam hiện chỉ có 656 DN sản xuất phụ tùng thay thế so với 58.000 DN hoạt động trong ngành công nghiệp sản xuất. Việt Nam đặt mục tiêu trở thành một nước công nghiệp hóa vào năm 2020, trong đó ngành công nghiệp phụ trợ sẽ đóng vai trò rất quan trọng. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn chưa cải thiện hơn nữa trong ngành công nghiệp phụ trợ kể từ năm 1990, khi công nghiệp lắp ráp từ Nhật Bản đến Việt Nam, đặc biệt là sau khi được Bộ Công thương phê duyệt Kế hoạch Hỗ trợ cho phát triển công nghiệp đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020 vào tháng 7/2007.
Ông Soma lý giải rằng, doanh nghiệp Việt Nam bộc lộ một số điểm yếu, như năng lực sản xuất thấp, thiếu kinh nghiệm quản lý và kỹ thuật kém, vì vậy họ thấy rất khó để đạt được chất lượng cao, tiêu chuẩn môi trường và giá cả cạnh tranh. Do đó, sẽ rất khó khăn để xuất khẩu sản phẩm của họ ra nước ngoài hoặc thậm chí để bán ở thị trường trong nước. Ngoài ra, lãnh đạo DN ở Việt Nam còn thiếu quyết tâm và nỗ lực để trở thành đối tác của các DN hoàn thành sản phẩm như Canon, Samsung.
Ông Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam nhận xét, cách duy nhất để DN Việt Nam trở thành vệ tinh của các đối tác lớn chính là thay đổi tư duy, chiến lược của họ, tập trung vào chuyên môn và không ngừng theo đuổi mục tiêu.
Vừa qua, Bộ Công thương đã trình Chính phủ Dự thảo Nghị định về phát triển ngành công nghiệp phụ trợ với những ưu đãi lớn chưa từng có nhằm tạo động lực thực sự cho ngành được coi là quan trọng đối với ngành công nghiệp sản xuất hiện đại.
"Chúng tôi hy vọng rằng, Nghị định này sẽ giúp thu hút thêm nhiều nhà đầu tư nước ngoài, nhà sản xuất và nhà cung cấp nguyên liệu. Nghị định mới phải thực tế, khả thi và thích hợp cho các DN và phải đảm bảo chi phí lao động không tăng quá nhanh. Ngoài ra, đây cũng là điều cần thiết để phát triển hệ thống giáo dục và đào tạo tại Việt Nam", ông Soma chia sẻ.