Năm 2021 là tiền đề quan trọng giúp nền kinh tế hồi phục và bật tăng mạnh mẽ trong năm 2022. Tuy nhiên, với việc vẫn còn rất nhiều khó khăn, Việt Nam cần tiếp tục đưa những chính sách, biện pháp trúng, đúng, kịp thời hơn nữa...
Theo tính toán của TS. Cấn Văn Lực, năm 2022, tăng trưởng GDP Việt Nam có thể đạt 6,5-7%
Năm 2021, mặc dù dịch bệnh diễn biến phức tạp, nghiêm trọng dẫn tới kinh tế Việt Nam phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức nhưng nhờ việc đẩy nhanh tiến trình bao phủ vaccine, việc linh hoạt điều chỉnh chiến lược chống dịch giúp cân bằng hơn giữa việc đảm bảo sức khỏe người dân và phục hồi; tăng trưởng kinh tế cả năm duy trì đà tăng trưởng dương và đang phục hồi nhanh, lạm phát ở mức thấp nhất trong 6 năm, xuất nhập khẩu đạt mức kỷ lục, thu hút đầu tư nước ngoài hồi phục… Đây là tiền đề quan trọng giúp nền kinh tế hồi phục và bật tăng mạnh mẽ trong năm 2022.
Tuy nhiên, kinh tế Việt Nam còn đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức như dịch bệnh vẫn diễn biến phức tạp; sức cầu tiêu dùng còn yếu; thu ngân sách thiếu bền vững; giải ngân đầu tư công không đạt mục tiêu cả năm; hoạt động doanh nghiệp còn nhiều khó khăn; rủi ro đứt gãy chuỗi cung ứng, gián đoạn sản xuất vẫn còn; nợ xấu đang gia tăng. Điều này đòi hỏi cần có những chính sách, biện pháp trúng, đúng, kịp thời hơn nữa, hỗ trợ doanh nghiệp và người dân, nhằm phục hồi và phát triển kinh tế bền vững.
KINH TẾ VĨ MÔ NĂM 2021 GHI NHẬN NHIỀU ĐIỂM SÁNG
Trong bối cảnh dịch bệnh tác động nghiêm trọng đến mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội, bức tranh kinh tế Việt Nam năm 2021 vẫn ghi nhận 8 điểm sáng.
Một là, dịch bệnh cơ bản vẫn được kiểm soát, đẩy nhanh tiến trình tiêm vaccine; nhiều chính sách, gói hỗ trợ đã ban hành tạo điều kiện khôi phục các hoạt động kinh tế xã hội. Trong năm 2021, Việt Nam phải đối mặt với các đợt bùng phát dịch bệnh, gây nhiều thiệt hại to lớn về người và của, nhiều hoạt động kinh tế - xã hội bị gián đoạn, ngưng trệ.
Để ứng phó với dịch bệnh, Đảng và Nhà nước đã đẩy mạnh ngoại giao vaccine, đẩy nhanh việc tiêm vaccine để sớm đạt được tỷ lệ tiêm đủ 2 mũi cho 100% người trưởng thành trong năm 2021, làm cơ sở để Chính phủ điều chỉnh sang chính sách thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19; tạo điều kiện khôi phục các hoạt động kinh tế - xã hội.
Bên cạnh đó, trên cơ sở các nghị quyết của Quốc Hội, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách, gói hỗ trợ người dân và doanh nghiệp vượt qua khó khăn như: Nghị định số 52/2021/NĐ-CP về giãn hoãn thuế, tiền thuê đất; Nghị quyết 68/NQ-CP về an sinh xã hội; Nghị quyết 116/NQ-CP về hỗ trợ người lao động; Nghị quyết số 83/NQ-CP về giảm giá điện; Thông tư 03-NHNN, sau đó sửa đổi bằng Thông tư 14-NHNN về cơ cấu lại nợ và giảm lãi, phí.
Chính phủ cũng đang chuẩn bị ban hành Chiến lược phòng, chống dịch và Chương trình phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội 2022-2023 sau khi Quốc Hội thông qua Chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ phục hồi để có thể triển khai ngay từ đầu năm 2022.
Hai là, tăng trưởng GDP phục hồi trong quý 4, là mức đáng khích lệ, trong bối cảnh dịch bệnh phức tạp, tác động tiêu cực đến mọi hoạt động kinh tế - xã hội. GDP quý 4/2021 ước tăng 5,22% so với cùng kỳ năm trước, cho thấy sự phục hồi bước đầu của nền kinh tế so với quý 3 (-6,02%) và so với quý 4/2020 (+4,48%), nhờ Chính phủ đã tích cực triển khai tiêm chủng và thay đổi Chiến lược phòng, chống dịch với Nghị quyết 128.
Tuy nhiên, tính chung cả năm 2021, GDP chỉ tăng 2,58%, thấp hơn mức 2,91% của năm 2020 và là mức thấp nhất trong vòng 10 năm qua, song là mức chấp nhận được, trong bối cảnh dịch bệnh rất phức tạp.
Động lực phục hồi kinh tế chính năm 2021 là lĩnh vực nông - lâm - thủy sản tăng 2,9% (gần bằng mức trước dịch Covid-19), đóng góp 14% vào mức tăng trưởng chung.
Tiếp đó, ngành công nghiệp chế biến - chế tạo tăng 6,4% (đóng góp 62,4% vào mức tăng trưởng chung); một số ngành dịch vụ như y tế và trợ giúp xã hội (+42,75%, đóng góp 21,3%), tài chính - ngân hàng – bảo hiểm (+9,4%, đóng góp 20,2%), công nghệ thông tin, viễn thông và truyền thông (+6%, đóng góp 14%)…v.v. Tuy nhiên, cũng có một số ngành giảm mạnh, kéo lùi đà tăng trưởng như du lịch, vận tải - kho bãi, lưu trú – ăn uống, công nghiệp khai khoáng...
Ba là, lạm phát được kiểm soát tốt, là mức thấp nhất trong vòng 6 năm qua. CPI bình quân năm 2021 tăng 1,84% so với năm 2020, là mức thấp nhất trong vòng 6 năm; chủ yếu do sức cầu còn yếu, vòng quay tiền chậm.
Kết quả tích cực này đã khẳng định những nỗ lực của Việt Nam trong kiểm soát lạm phát, đảm bảo cân đối cung - cầu hàng hóa, bình ổn giá cả, trong bối cảnh lạm phát toàn cầu tăng lên 3,2% (từ mức 2% năm 2020), giá nguyên, nhiên vật liệu toàn cầu tăng mạnh trong năm 2021.
Lạm phát cơ bản bình quân tăng 0,81% (mức thấp nhất 10 năm qua), thấp hơn mức CPI bình quân chung cho thấy lạm phát chủ yếu do yếu tố giá cả; và giá cả tăng chủ yếu là do chi phí đẩy (giá hàng hóa, nguyên vật liệu đầu vào tăng) chứ không hẳn là cầu kéo (do sức cầu còn yếu). Tuy nhiên, áp lực lạm phát tại Việt Nam đang gia tăng.
Bốn là, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) hồi phục trong bối cảnh dịch bệnh vẫn diễn biến phức tạp, kinh tế thế giới có nhiều biến động. Đến hết ngày 20/12/2021, vốn FDI đăng ký ước đạt 31,15 tỷ USD, tăng 9,2% so với năm trước.
Trong đó, vốn đăng ký cấp mới đạt 15,25 tỷ USD, tăng 4,1%; vốn đăng ký tăng thêm đạt 9,01 tỷ USD, tăng 40,5%, trong khi vốn góp, mua cổ phần đạt 6,89 tỷ USD, giảm 7,7% so với năm trước.
Điều này cho thấy mặc dù dịch bệnh bùng phát mạnh trên diện rộng, song Việt Nam vẫn duy trì được dòng vốn FDI nhờ dần kiểm soát được dịch bệnh và cam kết tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư - kinh doanh.
Trái lại, giải ngân vốn FDI cả năm 2021 đạt 19,74 tỷ USD, giảm 1,2% so với năm trước; chủ yếu là do dịch bệnh bùng phát mạnh, các biện pháp giãn cách xã hội nghiêm ngặt tại hầu hết các tỉnh thành, khiến các dự án đầu tư bị ảnh hưởng.
Năm là, xuất - nhập khẩu tăng mạnh, cán cân thương mại thặng dư. Năm 2021, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa tăng trưởng khá tốt, đạt 668,5 tỷ USD, tăng 22,6% so với năm trước. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu đạt 336,3 tỷ USD, tăng 19% so với năm trước; kim ngạch nhập khẩu đạt 332,2 tỷ USD, tăng 26,5%.
Cán cân thương mại thặng dư 4 tỷ USD; cho thấy nỗ lực của các doanh nghiệp đẩy mạnh khôi phục sản xuất, xuất nhập khẩu. Đây cũng là năm thứ 6 Việt Nam xuất siêu liên tục, và xuất nhập khẩu tăng cao, cho thấy vị thế trong chuỗi cung ứng toàn cầu của Việt Nam ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý là đóng góp không nhỏ vào tốc độ tăng xuất nhập khẩu ở đây là do yếu tố giá hàng xuất tăng.
Sáu là, tỷ giá ổn định, lãi suất giảm và duy trì ở mức thấp, góp phần hỗ trợ doanh nghiệp. Trong năm 2021, trong bối cảnh dịch bệnh bùng phát, giá cả hàng hóa, lạm phát thế giới tăng, Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, bám sát diễn biến thị trường để tăng cường ổn định vĩ mô và hỗ trợ doanh nghiệp.
Nhờ vậy, mặt bằng lãi suất giảm nhẹ, lãi suất cho vay giảm khoảng 0,8% so với đầu năm (năm 2020 giảm 1%), hỗ trợ doanh nghiệp, kích cầu tín dụng. Dư nợ tín dụng của hệ thống ngân hàng ước tăng khoảng 13,5%, cao hơn so với mức 13% năm trước.
Huy động vốn có tốc độ tăng chậm hơn, tăng khoảng 9%, thấp hơn mức tăng 13-14% các năm trước, một phần là do mặt bằng lãi suất thấp, phần khác là do dịch chuyển kênh đầu tư các tài sản sinh lời cao hơn như bất động sản, chứng khoán (cũng là xu hướng chung trên thế giới trong 2 năm qua).
Tỷ giá tương đối ổn định, thậm chí năm 2021, đồng VND tăng khoảng 1,2% so với USD, dù chỉ số đồng USD (DXY) tăng 6,7% năm 2021, chủ yếu là do: (i) niềm tin vào khả năng phục hồi kinh tế của Việt Nam, (ii) cung - cầu ngoại tệ nhìn chung khá cân bằng, khi cán cân thương mại thặng dư 4 tỷ USD, kiều hối đạt 18,2 tỷ USD (theo WB) và giải ngân FDI đạt 19,7 tỷ USD.
Đáng chú ý, Ngân hàng Nhà nước cũng đã chủ động (cùng với Bộ Tài chính, Bộ Công thương…) trao đổi với Bộ Tài chính Mỹ, nhờ đó Việt Nam được tháo mác “thao túng tiền tệ” từ tháng 4/2021 đến nay.
Bảy là, chuyển đổi số, phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo đạt nhiều bước tiến quan trọng. Đại dịch Covid-19, bên cạnh tác động tiêu cực cũng là tạo “cú huých” thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế số Việt Nam. Theo Báo cáo E-conomy (2021), Việt Nam đứng thứ 3 ASEAN và xếp hạng 14/50 khu vực Châu Á về quy mô kinh tế internet.
Cụ thể, kinh tế internet Việt Nam ước đạt 21 tỷ USD năm 2021 (khoảng 5,8% GDP năm 2021), tăng 31% so với năm 2020. Trong đó, quy mô thương mại điện tử năm 2021 ước đạt 13 tỷ USD, tăng 53% so với năm 2020, trở thành kênh phân phối hàng hóa, dịch vụ quan trọng trong bối cảnh dịch bệnh.
Thanh toán điện tử tăng nhanh với giá trị thanh toán qua kênh Internet, điện thoại di động và QR Code tăng tương ứng 29%, 88,3%, 129%, thuộc nhóm cao nhất thế giới; 16,4 triệu ví điện tử đang hoạt động, tăng 20,2% so với năm 2020.
Về đổi mới sáng tạo, Việt Nam xếp thứ 44/132 quốc gia (so với thứ hạng 42 năm 2019 và năm 2020), chủ yếu là do WIPO tính (27/81) chỉ số so với GDP đã điều chỉnh của Việt Nam (tăng 25,4% so với năm 2020). Việt Nam đứng thứ ba ASEAN về thu hút vốn đầu tư Fintech, chiếm 11% tổng số vốn của khu vực.
Tám là, hoạt động hội nhập quốc tế và đối ngoại đạt kết quả tích cực, chiến lược ngoại giao vaccine được triển khai mạnh mẽ, cho phép đẩy nhanh quá trình tiêm chủng và mở cửa nền kinh tế.
Năm 2021, Việt Nam đã hoàn thành tốt vai trò Ủy viên không thường trực và Chủ tịch Hội đồng bảo an Liên Hợp quốc, tham dự và có tiếng nói tích cực tại Hội nghị các Nhà lãnh đạo ASEAN nhằm thúc đẩy hợp tác xây dựng Cộng đồng ASEAN và giải quyết các vấn đề khu vực, quốc tế đang được quan tâm…
Bên cạnh đó, trong bối cảnh nguồn cung vaccine còn khan hiếm, chính sách ngoại giao vaccine đã được đẩy mạnh, giúp Việt Nam có nguồn vaccine để đẩy nhanh chương trình tiêm chủng. Điều này đã giúp Việt Nam tự tin thực hiện Nghị quyết 128 của Chính phủ, thay đổi căn bản Chiến lược phòng chống dịch, góp phần phục hồi kinh tế - xã hội từ quý 4/2021. Việt Nam cũng đã và đang tận dụng tốt hơn từ các Hiệp định Thương mại tự do (FTAs) thế hệ mới.
BẢY KHÓ KHĂN, THÁCH THỨC
Mặc dù kinh tế trong nước ghi nhận sự phục hồi tích cực, tuy nhiên vẫn còn 7 rủi ro, thách thức chính.
Thứ nhất, rủi ro, thách thức từ bên ngoài. Có thể nhận thấy 5 rủi ro chính bên ngoài trong năm 2021-2022: (i) dịch Covid-19 trên thế giới còn diễn biến rất phức tạp, tiếp cận vaccine không đồng đều, dẫn đến kinh tế thế giới phục hồi không đồng đều, bất bình đẳng gia tăng; (ii) Trung Quốc tăng trưởng chậm lại do tập trung vào cơ cấu lại, chất lượng và kiểm soát rủi ro bất động sản, năng lượng, sẽ giảm sức cầu thương mại, đầu tư; (iii) cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn vẫn còn phức tạp, khó lường; (iv) rủi ro địa chính trị và thiên tai, lũ lụt, biến đổi khí hậu ảnh hưởng tới khả năng phục hồi; (v) rủi ro tài khóa (nợ công, thâm hụt ngân sách), nợ hộ gia đình tăng; giá cả, lạm phát ở mức cao, một số nước bắt đầu thu hẹp các gói hỗ trợ, tăng lãi suất, tác động đến nghĩa vụ trả nợ hiện tại và chi phí vốn tương lai.
Thứ hai, sức cầu đang phục hồi nhưng còn yếu. Hoạt động thương mại và dịch vụ tiêu dùng đang phục hồi, tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng quý 4/2021 tăng 28,1% so với quý trước.
Tuy nhiên, tính chung cả năm 2021, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng giảm 3,8% so với năm trước (năm 2020 tăng 2,6%), chủ yếu do ảnh hưởng bởi dịch Covid-19, nhất là các biện pháp giãn cách xã hội nghiêm ngặt trước khi Chính phủ ban hành Nghị quyết 128 (ngày 11/10/2021).
Thứ ba, thực hiện vốn đầu tư toàn xã hội tăng thấp nhất trong nhiều năm. Tính chung cả năm 2021, vốn đầu tư toàn xã hội theo giá hiện hành đạt 2,892 triệu tỷ đồng, chỉ tăng 3,2% so với năm trước và mức thấp nhất trong nhiều năm qua. Trong đó, vốn khu vực Nhà nước đạt 713,6 nghìn tỷ đồng, giảm 2,9% so với năm trước; khu vực ngoài Nhà nước đạt 1,72 triệu tỷ đồng, tăng 7,2%; khu vực có vốn FDI đạt 458,1 nghìn tỷ đồng, giảm 1,1%.
Với bối cảnh đó, hoạt động đầu tư công cũng chịu ảnh hưởng rõ nét khi vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước cả năm 2021 ước đạt 423,6 nghìn tỷ đồng, chỉ bằng 84,3% kế hoạch năm và giảm 8,6% so với năm 2020 (năm 2020 bằng 90,5% và tăng 33,6%). Điều này vừa giảm khả năng lan tỏa dòng vốn khác cũng như giảm động lực tăng trưởng trung – dài hạn.
Thứ tư, thu ngân sách vượt dự toán nhưng thiếu bền vững, áp lực thâm hụt ngân sách gia tăng. Thu ngân sách tính đến ngày 15/12/2021 đạt 1.532,4 nghìn tỷ đồng, đạt 113,4% dự toán năm và tăng 16,5% so với năm 2020. Cả ba khoản thu đều vượt dự toán và tăng mạnh (thu từ dầu thô, thu thuế xuất - nhập khẩu, thu nội địa lần lượt vượt 97,4%, 22,1% và 10,4% kế hoạch năm). Đây là tín hiệu tích cực và nỗ lực lớn của Chính phủ, ngành tài chính trong điều kiện vừa giãn hoãn thuế, phí để hỗ trợ người dân, doanh nghiệp, vừa tăng cường quản lý thu ngân sách.
Tuy nhiên, một phần là do dự toán chưa sát và phần khác là nhiều khoản thu thiếu bền vững như thu thuế kinh doanh chứng khoán tăng 300%, thu thuế chuyển nhượng bất động sản tăng 150%, thu từ dầu thô tăng 40% và thu thuế xuât nhập khẩu tăng 26,5% so với năm 2020. Những nguồn thu này khó có thể bền vững được.
Nhìn chung, các chỉ số tài khóa chính (như nợ công, nợ Chính phủ, thâm hụt ngân sách, nghĩa vụ trả nợ) vẫn trong tầm kiểm soát và thấp hơn các nước trong khu vực, dư địa mở rộng tài khóa còn khá lớn trong giai đoạn 2022-2023 để hỗ trợ phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, khi thực hiện cần chú trọng dự toán tốt hơn, đa dạng hóa nguồn thu và phối hợp hiệu quả hơn với chính sách tiền tệ và các chính sách vĩ mô khác.
Thứ năm, hoạt động của doanh nghiệp phục hồi nhưng còn nhiều khó khăn. Năm 2021, hoạt động doanh nghiệp chịu tác động nghiêm trọng do dịch bệnh, đặc biệt là trong quý 2 và quý 3. Từ đầu quý 4, Chính phủ đã dần chuyển dịch sang chiến lược “Sống chung an toàn với Covid”, giúp hoạt động doanh nghiệp dần phục hồi.
Tuy nhiên, hoạt động doanh nghiệp vẫn gặp nhiều khó khăn do tình hình dịch bệnh còn diễn biến phức tạp, chính sách phòng chống dịch chưa thực sự nhất quán giữa một số địa phương… và sẽ cần nhiều thời gian để khôi phục.
Số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới năm 2021 giảm 13,4% so với năm trước (giảm sâu nhất giai đoạn 2017-2021). Số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động giảm 2,2%; số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh tăng 18% và số doanh nghiệp hoàn tất giải thể giảm 4,1% so với năm 2020.
Thứ sáu, rủi ro nợ xấu gia tăng. Trong bối cảnh dịch bệnh, người dân, doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, nợ xấu có xu hướng gia tăng. Theo Ngân hàng Nhà nước, tính đến hết năm 2021, tỷ lệ nợ xấu nội bảng khoảng 2% (từ mức 1,7% cuối năm 2020).
Đáng chú ý, nợ xấu gộp (bao gồm nợ xấu nội bảng, nợ xấu đã bán cho VAMC chưa xử lý và nợ xấu tiềm ẩn từ các khoản cơ cấu lại) đã tăng lên mức 7,31% (so với mức 5,1% cuối năm 2020). Với đà này, theo chúng tôi, do có độ trễ và có tính đến khả năng phục hồi của nền kinh tế; nợ xấu nội bảng có thể ở mức 2,3-2,5% và nợ xấu gộp sẽ khoảng 5,5-6% năm 2022.
Thứ bảy, cơ cấu lại nền kinh tế còn chậm. Trong bối cảnh ưu tiên phòng chống dịch của các bộ, ngành, địa phương; tiến trình cơ cấu lại nền kinh tế, gồm cả các lĩnh vực ưu tiên, các dự án thua lỗ bị chậm lại.
Theo Bộ Tài chính, trong 11 tháng năm 2021, thu từ thoái vốn doanh nghiệp Nhà nước đạt 4.356 tỷ đồng, chỉ đạt 10,9% kế hoạch (40 nghìn tỷ đồng), mới cổ phần hóa được 3 doanh nghiệp (ngoài danh mục), chưa cổ phần hóa 89 doanh nghiệp.
Nguyên nhân khách quan là do dịch Covid-19 bùng phát kéo dài, thực hiện giãn cách xã hội nghiêm ngặt khiến cho các hoạt động chuẩn bị cho cổ phần hóa và thoái vốn, như xác định giá trị doanh nghiệp, đấu thầu, thuê tư vấn, trao đổi, hội nghị với doanh nghiệp, địa phương phải trì hoãn. Ngoài ra, việc xử lý các dự án thua lỗ, yếu kém còn chậm; một phần là do dịch Covid-19 khiến hoạt động của các dự án này trở nên khó khăn hơn.
DỰ BÁO KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2022
Trong bối cảnh thế giới dự báo có nhiều biến động, đặc biệt là diễn biến dịch Covid-19 còn phức tạp, khó lường, tăng trưởng GDP toàn cầu năm 2022 dự báo khoảng 4-4,5%, lạm phát toàn cầu khoảng 3,3%; chúng tôi cho rằng mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2022 của Việt Nam sẽ là đa mục tiêu, trong đó trọng tâm vẫn là vừa phòng, chống dịch bệnh hiệu quả, đảm bảo an toàn sức khỏe và sinh mạng người dân; vừa phục hồi, phát triển kinh tế xã hội trong trạng thái bình thường mới. Chúng tôi dự báo kinh tế Việt Nam năm 2022 như sau:
Về tăng trưởng GDP năm 2022, các hoạt động kinh tế - xã hội được dự báo sẽ phục hồi mạnh hơn khi dịch bệnh được kiểm soát tốt hơn và Việt Nam tiếp tục chiến lược sống chung an toàn với Covid. Hiện nay, các tổ chức quốc tế khá lạc quan về triển vọng của nền kinh tế Việt Nam trong trung và dài hạn. Theo đó, dự báo kinh tế Việt Nam năm 2022 tăng trưởng ở mức 6,5-7% (như ADB và HSBC dự báo mức 6,5% và Standard Chartered 6,7%; trong khi WB dự báo mức tăng trưởng 5,5%).
Theo tính toán của chúng tôi, kinh tế Việt Nam năm 2022 có thể theo 2 kịch bản. Nếu Việt Nam thực hiện tốt Chương trình phòng chống dịch và Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội 2022-2023, dự báo kinh tế Việt Nam có thể tăng trưởng 6,5-7% (khả năng cao). Còn nếu Việt Nam phòng, chống dịch thiếu nhất quán và chậm triển khai Chương trình phục hồi, phát triển kinh tế xã hội, GDP có thể chỉ tăng 5-5,5%.
Về lạm phát năm 2022, trong cả 2 kịch bản trên, dự báo CPI bình quân sẽ tăng khá cao, lên ở mức 3,5-3,8%. Lạm phát tăng chủ yếu là do: (i) giá cả, lạm phát toàn cầu còn ở mức cao, khả năng đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu vẫn còn diễn ra, kéo theo lạm phát chi phí đẩy (nhập khẩu lạm phát); (ii) lạm phát do cầu kéo (cùng với đà phục hồi kinh tế); và (iii) độ trễ cũng như thực thi chính sách tài khóa, tiền tệ có phần mở rộng, thích ứng (một phần là do thực hiện Chương trình phục hồi nêu trên).
Về lãi suất năm 2022, dự kiến Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục điều hành chủ động, linh hoạt, đồng bộ các công cụ chính sách tiền tệ, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ phục hồi kinh tế xã hội.
Do đó, lãi suất dự báo được duy trì ở mức thấp, mặc dù trong bối cảnh thế giới tăng lãi suất, nhu cầu tín dụng và áp lực lạm phát tăng lên (như phân tích ở trên) có thể khiến mặt bằng lãi suất tăng nhẹ ở một số thời điểm.
Về tỷ giá năm 2022, tỷ giá dự kiến tăng ở mức 0,5-1% so với cuối năm trước do: (i) hoạt động kinh tế phục hồi khiến nhu cầu thanh toán, vay ngoại tệ bằng đồng USD tăng lên; (ii) Fed thực hiện thu hẹp nới lỏng định lượng, tăng lãi suất, khiến cho giá trị đồng USD duy trì ở mức cao; (iii) dự trữ ngoại hối duy trì ở mức cao giúp giá trị VND ổn định; (iv) cán cân thương mại dự báo tiếp tục thặng dư; và (iv) kiều hối tiếp tục tăng so với năm 2021, hỗ trợ tỷ giá ổn định.
SÁU KIẾN NGHỊ
Qua những phân tích và dự báo như trên, để đạt được mục tiêu phục hồi, tăng trưởng kinh tế ở mức 6-6,5% như Quốc hội giao hay có thể cao hơn (6,5-7% như chúng tôi dự báo ở kịch bản tích cực), chúng tôi có 6 kiến nghị như sau:
Một là, Chính phủ nhất quán quan điểm chỉ đạo là quyết tâm thực hiện “đa mục tiêu” (chứ không chỉ có mục tiêu kép), gồm vừa phòng chống dịch, vừa phục hồi, phát triển kinh tế, đảm bảo năng lực y tế, an sinh xã hội, năng lực chống chịu các cú sốc bên ngoài và tâm thế phục hồi, tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức trong và sau đại dịch.
Hai là, cần sớm ban hành và thực hiện tốt Chương trình phòng, chống dịch với phương châm nhất quán là “sống chung an toàn với Covid”, trong đó cần quan tâm, có đề án, kế hoạch tổng thể về nâng cao năng lực y tế.
Đồng thời, cần sớm ban hành và thực thi hiệu quả Chương trình phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2022-2023 (trên cơ sở chính sách tài khóa và tiền tệ hỗ trợ phục hồi mà Quốc Hội vừa thông qua). Chương trình này cần gắn kết chặt chẽ với Chiến lược phòng, chống dịch, đề án cơ cấu lại nền kinh tế và thực hiện 3 đột phá chiến lược.
Ba là, đẩy nhanh, quyết liệt cải cách, hoàn thiện thể chế (bao gồm cả khung pháp lý cho kinh tế số, mô hình kinh doanh mới); cải thiện thực chất hơn nữa môi trường đầu tư - kinh doanh; kiên quyết tháo gỡ rào cản, vướng mắc sớm nhất có thể.
Chính phủ sớm ban hành hướng dẫn thực thi một luật sửa 8 luật; xây dựng đề án sửa đổi các bộ luật được sự quan tâm lớn của người dân và doanh nghiệp hiện nay như luật Đất đai, luật Nhà ở, luật Kinh doanh bất động sản, luật Giao dịch điện tử…
Bốn là, nâng cao hiệu quả phối hợp chính sách, nhất là giữa chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm: (i) thực hiện tốt Chương trình phục hồi, phát triển kinh tế xã hội; (ii) kiểm soát rủi ro phát sinh, rủi ro lạm phát, rủi ro tài khóa (do phải chấp nhận nợ công, thâm hụt ngân sách, nghĩa vụ trả nợ, tín dụng tăng trong tầm kiểm soát); tạo điều kiện tăng vốn cho các tổ chức tín dụng và đề xuất phương án luật hóa xử lý nợ xấu phù hợp.
Năm là, đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế nhằm có thể huy động và phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn. Chính phủ cần sớm ban hành các đề án cơ cấu lại của các cấu phần quan trọng (doanh nghiệp Nhà nước, tổ chức tín dụng, đầu tư công, ngân sách và đơn vị sự nghiệp công…) nhằm thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII và Nghị quyết 31/2021/QH15 về kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025 của Quốc hội.
Sáu là, hết sức chú trọng tạo điều kiện phục hồi, phát triển doanh nghiệp. Theo đó, cần đẩy nhanh thực hiện hiệu quả các chính sách hỗ trợ (chú trọng phục hồi lao động); tăng tính gắn kết giữa các khối doanh nghiệp (trong nước với FDI, lớn với nhỏ); chính thức áp dụng chuẩn mực quản trị theo thông lệ đối với mọi loại hình doanh nghiệp (bao gồm cả doanh nghiệp Nhà nước); nâng đỡ, khuyến khích để các hộ gia đình chuyển đổi thành doanh nghiệp siêu nhỏ thành công và hiệu quả; đồng thời, hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số và tạo điều kiện để một số doanh nghiệp lớn (đầu đàn) dẫn dắt, lan tỏa, đi đầu trong kiến tạo, kết nối các chuỗi giá trị lớn.